Mời bạn CLICK vào liên kết bên dưới và MỞ ỨNG DỤNG SHOPEE để mở khóa toàn bộ chương truyện.
https://s.shopee.vn/6VDP6ltjGz
Lưu ý: Nội dung trên chỉ xuất hiện 1 lần trong ngày, mong Quý độc giả ủng hộ. Xin chân thành cảm ơn!
12.
Sau khi dạo quanh một vòng nơi biên ải, ta lại quay về chốn tuyết lở.
Lần này, vừa đến nơi thì gặp được đồng ngũ của Chu Minh Quang.
Thì ra mấy ngày nay tuyết đã tan, họ chuẩn bị quay lại tìm xem liệu có thể lần ra tung tích toán người mất tích kia hay không.
Từ Thanh Tùng dùng dây thừng trói chặt ta lại, mang đến nhờ một nhà mục dân gần đó trông giữ.
Hắn sợ… nếu ta tận mắt nhìn thấy thi thể của Chu Minh Quang, sẽ không chịu nổi mà sụp đổ.
Ta nằm trong trướng lều, cả người không nhúc nhích được, chỉ có những giọt nước mắt từng hạt từng hạt nặng nề rơi xuống.
Ta không ngừng cầu xin ông trời, cầu xin đừng tìm thấy Chu Minh Quang.
Chỉ cần không thấy, ta vẫn có thể tiếp tục tự lừa dối mình…
Đáng tiếc…
Thi thể của Chu Minh Quang… vẫn bị tìm thấy.
Hắn bị băng tuyết vùi lấp, đông cứng lại…
Trong lòng vẫn ôm chặt bùa bình an ta từng trao trước ngày hắn xuất chinh.
Phật tổ vô tình—rốt cuộc cũng không che chở nổi ca ca Minh Quang của ta.
Có lẽ vì đã khóc quá nhiều, nên đến lúc nghe tin, ta lại vô cùng bình tĩnh.
Từ Thanh Tùng lo lắng ngồi bên, thấp giọng nói:
“Nếu tỷ có thể khóc được thì hãy cứ khóc đi… Tỷ không rơi lệ, mọi người lại càng khó chịu hơn.”
Ta khẽ đáp một tiếng “được”, nhưng nước mắt… rốt cuộc lại không thể rơi ra.
Có lẽ là vì ta đã biết—Chu Minh Quang không còn nữa, sẽ chẳng còn ai giúp ta lau nước mắt nữa rồi.
Cuối tháng Bảy, biên cương phương Bắc, hoa hương thái tím nở kín sườn núi, trải dài như biển mây lượn lờ.
Hoa nở hoa tàn, năm nào cũng thế.
Và năm nào cũng có những người con tuấn kiệt như Chu Minh Quang, vĩnh viễn nằm lại nơi này.
Ta từng định mang tro cốt của hắn hồi hương, chôn bên cạnh song thân.
Thế nhưng, khi trông thấy hương thái hoa nở rộ khắp núi đồi… ta lại đổi ý.
Núi xanh may mắn được chôn anh hùng cốt.
Nơi này toàn là huynh đệ đồng sinh cộng tử với hắn—nghĩ đến đó, ta tin hắn ắt cũng nguyện ở lại đây, trấn giữ nơi biên cương vĩnh viễn.
Trong lễ an táng Chu Minh Quang và những đồng đội hy sinh cùng hắn, ta ngẩng cao đầu, thẳng sống lưng, lấy thân phận người còn sống của hắn mà đọc văn tế, thủ linh, nâng quan.
Người bên ngoài đều khen:
“Nữ tử này cốt khí thật kiên cường, xứng đáng là gia quyến quân nhân trấn Bắc quan ta!”
Sau tang lễ, ta ngã quỵ.
Giấc mộng hỗn loạn như quay lại thuở ấu thơ bệnh nặng, khi Chu Minh Quang ngồi trên chiếc ghế con, chống cằm trông ta suốt đêm.
Lại như trở về tửu quán của tỷ Triệu, nơi nàng từng dùng nước lạnh lau người ta hết lần này đến lần khác.
Ta nghĩ—nếu cứ như vậy ngủ mãi… có lẽ còn có thể đuổi kịp Chu Minh Quang nơi đầu cầu Nại Hà.
Kiếp này được trời cho cơ hội sống lại, kỳ thực chẳng phải để thay đổi vận mệnh gì, mà là để cho ta được tận mắt chứng kiến kết cục của hắn.
Tự tay đặt dấu chấm hết cho mối si niệm đã kéo dài hơn nửa thế kỷ kia.
Bằng không, vì cớ gì không để ta trọng sinh trước ngày hắn tòng quân?
Vì sao nhất định phải khiến ta lưu lại Vọng Bắc Thành thêm mấy tháng?
13.
Trước mắt ngập tràn một màu đỏ thẫm, tiếng của Chu Minh Quang vang lên giữa cõi mộng ảo hư thực giao hòa:
“Nguyệt Dao, ba năm ước hẹn đã tròn. Kiếp này… nàng phải sống thật tốt, để ta thấy nàng con đàn cháu đống, áo cơm vô lo.”
“Chàng không còn nữa… ta làm sao sống cho tốt được đây?”
Ta không màng tất cả, chỉ biết đuổi theo hắn—thế nhưng, bóng hình kia lại dần khuất vào màn sương đỏ mịt mù.
“Ngốc à, kiếp trước nàng đã chấp mê suốt năm mươi năm. Kiếp này… hãy sống cho mình. Gả chồng, sinh con, làm một thê tử bình thường.
Ta sẽ hóa gió, hóa mưa, mãi mãi ở bên cạnh nàng.”
Hắn rốt cuộc cũng quay đầu lại—đứng dưới tán ngô đồng, ngược sáng như ánh bình minh. Ánh nắng đậu lên mái tóc hắn, óng lên những tia kim sắc.
Lông mày như kiếm, mắt đen sáng như sao, khi khóe môi cong lên còn lộ ra chiếc răng nanh nhỏ.
Cả người hắn như măng tre vừa nhú trong tiết xuân—trẻ trung, rắn rỏi, và sống động.
Ta cuối cùng cũng nhớ ra… dáng vẻ của ca ca Minh Quang năm nào…
Nhưng chỉ một cái chớp mắt, hắn lại hóa thành làn khói mờ, tan vào sương máu giữa ráng chiều.
“Không!” – Ta giãy giụa, cố đuổi theo hắn:
“Chu Minh Quang! Chờ ta với…”
“…Tỷ ơi? Tỷ tỉnh rồi sao?”
Từ Thanh Tùng kinh ngạc chạy lại gần, sau đó lập tức vụt đi như cơn gió:
“Tỷ Triệu! Tỷ Triệu! Tỷ Nguyệt Dao tỉnh rồi! Đại phu! Mau tới xem! Tỷ ấy tỉnh rồi!”
Sau một hồi náo động ồn ã, ta mới lờ mờ hiểu ra—ta đã hôn mê suốt nửa tháng.
Bấy lâu nay đều là tỷ Triệu ngày đêm không rời mà chăm sóc, còn Từ Thanh Tùng thì vượt trăm dặm mời đại phu tới khám.
Đứa nhỏ nhà họ Triệu, Tiểu Thạch, khiêng ghế con, ngồi nơi đầu giường ta suốt từng ấy ngày.
Thì ra, người đặt tay dưới cằm, thủ thỉ bên giường ta trong giấc mộng… chẳng phải Chu Minh Quang, mà là đứa nhỏ này.
Hôm nay, khi đã đỡ hơn, ta vừa nghỉ dưỡng vừa dạy Tiểu Thạch học chữ.
Tỷ Triệu mỉm cười nói:
“Tiểu tử này khoe với mấy binh sĩ ở cổng thành rằng: đợi học xong chữ, hắn sẽ giúp họ viết thư về nhà mà không lấy một đồng nào.”
Ta sững người—gia thư đáng giá ngàn vàng, Tiểu Thạch quả thật là đứa nhỏ ngoan!
Đang nói thì bên ngoài sân vang lên tiếng gõ cửa.
Hóa ra là mấy vị hảo huynh đệ trong doanh Chu Minh Quang, nghe tin ta đã tỉnh, liền đặc biệt tới thăm.
” Muội muội à, đây là bọc đồ Minh Quang để lại, trước kia bọn ta chưa kịp đưa cho muội.”
Ta mở ra xem—là một túi bạc, cùng một cuộn trúc giản.
Trên trúc giản, từng đường khắc san sát ghi lại ngày tháng, từ ngày hắn rời quê hương, cho đến ngày cuối cùng rời khỏi doanh trướng.
Còn có một chiếc trâm bạc khắc hình hoa mai, tinh xảo tuyệt luân. Trên thân trâm, có khắc một hàng chữ nhỏ:
“Nguyện cùng nàng, tóc xanh đến bạc đầu.”
Khóe mắt cay xè—thì ra hắn chưa từng quên lời hứa với ta.
Dù là tiền kiếp… hay kiếp này!
Một vị huynh trưởng da ngăm trong nhóm binh sĩ khẽ lên tiếng, giọng nghẹn ngào:
“Minh Quang thường xuyên nhắc đến muội, hắn vốn định sang năm sẽ về quê thành thân…”
Lời chưa dứt, người kia đã nấc nghẹn, lệ tràn nơi khóe mắt.
Thì ra… Chu Minh Quang biết rõ chuyến áp tải vật tư lần này hiểm nguy trùng trùng, nhưng vì nghĩ mình sắp hồi hương rồi, nên mới muốn gánh thay huynh đệ phần vất vả sau cùng.
14.
Ngày ta rời khỏi Vọng Bắc Thành, trời hiếm hoi đổ mưa lất phất.
Trên đài lửa biên ải, những binh sĩ giữ thành vẫn đứng thẳng lưng trong mưa gió, không chút xao động.
Ngoài cổng thành, tiếng lục lạc lạc đà lẫn trong mùi khói củi thoảng bay theo làn mưa mỏng.
Tỷ Triệu lưu luyến níu lấy tay ta:
“Nguyệt Dao, đợi trời tạnh mưa hẵng đi cũng không muộn.”
Nhưng ta từ chối—bởi có những việc… chẳng thể chờ đợi.
Một khi chậm bước, có thể chính là đánh mất cả đời.
Hành trang ta mang theo cồng kềnh nặng trĩu, bên trong toàn là gia thư—là thư của những binh sĩ tha hương ta gặp trong thời gian qua, nhờ ta chuyển tới tay người nhà họ.
Kiếp trước, những điều ta từng không thể chờ đợi… kiếp này, ta không muốn chứng kiến ai lặp lại nỗi đau ấy nữa.
Vừa ra khỏi cổng thành, Từ Thanh Tùng đã đuổi tới nơi.
“Tỷ từng hứa, bất kể đi đâu cũng phải mang ta theo!”
Vẻ mặt hắn uất ức như con mèo hoang bị chủ bỏ rơi.
Ta vừa định mở lời khuyên can, hắn lại vội nói:
“Đợi tỷ đưa thư xong, ta sẽ về nhà… đi thăm A nương.”
Thời gian qua ta đã nhiều lần khuyên nhủ hắn. A nương hắn tuy thiên vị kế tử, nhưng cũng không có nghĩa là không thương nhớ con đẻ.
Ta không muốn hắn mang theo tiếc nuối, càng không mong lại có thêm một người… bỏ lỡ một đời chờ đợi.
Giờ phút này, hắn cuối cùng cũng chịu buông bỏ tảng đá trong lòng, ta mừng khôn xiết.
Binh sĩ nơi Bắc địa đến từ khắp mọi phương trời, nhờ việc chuyển thư, ta và Thanh Tùng đã đặt chân đến nhiều nơi.
Tại Tái Bắc, ta gặp một bà mẹ già gương mặt hằn sâu vết nhăn năm tháng, tay run run nâng bức thư mỏng như cánh ve, nhẹ nhàng vuốt ve từng hàng chữ như cúng tế một phần thân máu thịt đã khuất.
Đặt chân tới đất Thục, ta gặp một cô nương tuổi tác xấp xỉ, cũng giống như ta năm nào—tay cầm lá thư hôn phu gửi về, khi thì cười, lúc lại khóc nức nở không thành tiếng.
Các nàng mang thịt khô Tết để dành, nấu cơm cho bọn ta, ân cần hỏi chuyện biên cương, hỏi người và việc nơi trận địa—hết lần này đến lần khác, không biết chán.
Khi bọn ta đi qua Thanh Châu, bất ngờ gặp lại Lương Tứ Nương.
Nàng vừa trông thấy đoá hoa trắng cài nơi tóc mai ta thì khựng lại một thoáng, rồi cất giọng trầm tĩnh an ủi:
“Tiết ai nha. Dẫu cuộc đời có khổ thế nào… cũng phải bước tiếp về phía trước.”
Biết được ta đang đi khắp nơi đưa gia thư thay người đã mất, nàng không chút do dự:
“Ta giúp một tay!”
Thuyền đội của Lương gia trải rộng cả Nam lẫn Bắc, chỉ một lời của nàng đã giúp bọn ta tiết kiệm bao nhiêu đường đất gian nan.
Lúc chia tay, nàng tặng ta một miếng đồng bài:
“Đây là tín vật của thương đội Lương thị, nếu sau này cần gửi thư, chỉ cần đưa cho chưởng quầy là được.
Bất kể thương thuyền đi đến đâu, đều sẽ đưa đến tận tay.”
Ta vội cúi người tạ ơn, nhưng nàng đã nhẹ nhàng đỡ lấy cánh tay ta:
“Gửi thư về quê—kỳ thực không chỉ là vì người khác… mà là vì chính ta năm xưa.”