Mời bạn CLICK vào liên kết bên dưới và MỞ ỨNG DỤNG SHOPEE để mở khóa toàn bộ chương truyện.
https://s.shopee.vn/AKP2gKZZAY
Lưu ý: Nội dung trên chỉ xuất hiện 1 lần trong ngày, mong Quý độc giả ủng hộ. Xin chân thành cảm ơn!
15
Kế mẫu ta “bệnh chết” nửa tháng sau đó.
Vì đau lòng quá độ, ta còn chưa bước vào linh đường đã ngất lịm, chỉ còn đệ đệ ngơ ngác quỳ gối trước linh cữu.
Phùng Lan Âm đi sau vài bước thì lại khóc rống lên ngay khi bước vào linh đường, nhưng tiếng khóc ấy chẳng mang chút đau thương nào, chỉ toàn phẫn hận và không cam tâm.
Nàng ta vẫn mang danh đích nữ, nhưng mẫu thân nàng từ nay chỉ còn là thiếp thất trong phủ.
Linh cữu của mẫu thân ta được đưa về tông phần họ Phùng, bài vị chính thức nhập vào từ đường.
Ta bắt ép đệ muội cùng kế mẫu – tiểu Tôn thị đến trước linh vị của mẫu thân ta tụng kinh sám hối.
Phụ thân nghe tin chạy đến, vừa định mở miệng trách mắng thì ta đã siết chặt ngân thương, điềm nhiên cắt lời:
“Phụ thân, người cũng nên vì mẫu thân mà tạ lỗi.”
Phụ thân nổi giận rút trường thương đặt trong từ đường.
“Con thật sự cho rằng cánh bản thân cứng rồi sao?!”
“Con nghĩ ta không làm gì được con nữa hay sao?!”
Ta và phụ thân đánh nhau một trận.
Thương pháp Phùng gia là do chính tay ông truyền dạy: đỡ, đâm, chém, xoắn…
Giờ đây, ta thi triển lại toàn bộ.
Năm ta 9 tuổi chỉ cần cản được một chiêu của phụ thân cũng đủ khiến ông reo hò khen ngợi.
Nhưng nay, khi ta đánh bật thương trong tay ông, ánh mắt ông chỉ còn lại kinh ngạc, hoảng hốt, giận dữ…
Sau cùng, ta nhìn thấy một tia cảm khái trong mắt ông.
Ông nhìn thương rơi dưới đất, lắc đầu:
“Năm ta 18 tuổi đã thắng phụ thân, trở thành người nắm quyền Phùng gia.”
“Nay ta cũng không quản nổi con nữa.”
“Con muốn sao thì cứ làm vậy đi.”
Phụ thân quay đi.
Ông mang theo đệ đệ trở về biên cương.
Tiểu Tôn thị và Phùng Lan Âm thì bị ta bắt đến từ đường tụng kinh mỗi ngày.
Sau 5 tháng ròng rã, họ không chịu nổi nữa, bèn thừa lúc ta nghỉ ngơi mà lén bỏ thuốc vào trà.
Nhưng họ lại quên mất một điều – ta bắn cung giỏi nên tai cũng cực kỳ thính.
Họ tưởng ta đã ngủ, nhưng ngay lúc họ rời bồ đoàn đứng dậy, ta đã khẽ hé mắt.
Cuối cùng, ta đổ chén trà ấy vào miệng họ.
Một chút nhân tính còn sót lại đã cứu họ một mạng.
Trà không phải độc dược trí mạng mà là thứ thuốc khiến da thịt mục rữa.
Tiểu Tôn thị biết ta sẽ không tha cho mình nên khi bị ta cưỡng ép uống trà, bà ta điên cuồng uống thêm, kết quả mặt mũi toàn thân lở loét trầm trọng.
Còn Phùng Lan Âm thì nhẹ hơn nhiều.
Ta có chút ghen tị.
Nghĩ rằng nếu mẫu thân ta còn sống thì chắc cũng sẽ liều mình che chở cho ta như vậy.
Tiểu Tôn cứng đầu không chịu khuất phục, đến nước này rồi vẫn chưa buông tay, còn viết thư cho phụ thân ta than khóc, cầu xin ông đưa họ về biên cương.
Nhưng ông mãi không hồi âm.
Đến kỳ về triều báo cáo công tác năm sau, ông mới mang theo đệ đệ và một phụ nhân bế hài nhi trở về.
Phụ thân nói đây là nữ nhân ông cứu được ngoài biên ải, tuy thân phận thấp kém nhưng tính tình hiền lành, ông đã thưa với tổ mẫu, muốn cưới bà làm kế thất.
Tiểu Tôn thị phát điên, nhân đêm tối toan bóp chết nam hài kia, may có gia nhân cảnh giác ngăn bà ta lại.
Phụ thân giận dữ đưa bà ta đến chùa ngoài thành cạo đầu đi tu.
Còn Phùng Lan Âm mất chỗ dựa rốt cuộc cũng thu liễm, chỉ lo liệu cho đệ đệ, chờ ngày gả đi.
Phong ba nhà họ Phùng từ đó về sau không còn can hệ đến ta nữa.
Khi kỳ để tang ba năm sắp kết thúc, hôn sự giữa ta và Thôi Dư cũng chính thức được đưa ra bàn luận.
16
Kiếp trước, ta chưa từng sống đến thời khắc này nên cũng chẳng biết vào mùa đông năm đó, Tấn Vương nổi binh tạo phản.
Hoàng thượng nửa là giận dữ, nửa là muốn răn đe, bèn hạ chỉ lệnh cho cháu trai ruột của Tấn Vương – con trai độc nhất của Trưởng công chúa tới Ung Thành khuyên hàng.
Mà người ấy, không ai khác chính là vị hôn phu của ta – Thôi Dư.
Khi Thôi Dư đến tìm ta, ta đã thu dọn hành trang xong xuôi.
Chàng nhẹ nhàng vén lọn tóc rối trước trán ta, giọng nói vẫn ôn hòa như mọi khi, nhưng lần này lại thêm phần cương quyết không thể phản kháng:
“Mãn Mãn, hãy ở nhà đợi ta.”
“Bá Cẩn.”
Thôi Dư vừa mới cử hành lễ cập quan vào tháng trước, người trong nhà đã đặt tự cho chàng.
“Thiếp muốn cùng chàng đi.”
Chàng trìu mến nhìn ta.
“Chuyến đi này, ta không nắm chắc phần thắng.”
“Nếu nàng đi theo chỉ khiến ta phải lo trước nghĩ sau.”
“Hơn nữa, ta không thể để nàng rơi vào hiểm cảnh.
“Mãn Mãn, như thế chẳng khác gì ép ta phải chết.”
Thôi Dư một mình xuôi Nam, đi khuyên nhủ chính cữu cữu của mình buông binh quy hàng.
Vị thiên tử hiện tại vốn là người nhân đức nghiêm minh, dẫu không có thánh chỉ thì Thôi Dư cũng không đành lòng thấy bá tánh phải chịu cảnh binh đao bởi một chút tư tâm.
Nhưng rõ ràng Thôi Dư đã thất bại.
Nếu Tấn Vương còn nghĩ đến tình thân đã chẳng phớt lờ thân tỷ và Thôi Dư ở kinh thành để dấy binh tạo phản.
Đây vốn dĩ là một ván cờ chắc chắn sẽ thua.
Ta chỉ còn biết đặt cược: hai quân giao tranh không chém sứ giả, chí ít Tấn Vương sẽ để Thôi Dư bình an trở về.
Nhưng ta đã cược sai.
Sau khi Thôi Dư tiến vào doanh trại Tấn Vương thì chẳng bao giờ trở ra.
Thứ được đưa về chỉ là một chiếc phát quan nứt vỡ.
Tấn Vương mượn danh trưởng tử dòng chính họ Thôi ở Thanh Hà để mời gọi môn sinh phía Nam tụ hội.
Nhưng giữa yến tiệc, Thôi Dư lại ném gãy ngọc bội đeo bên hông – tỏ rõ chí nguyện thà chết không khuất phục.
Triều đình lập tức phân thành hai phái, tranh cãi đến long trời lở đất.
Phái lấy Thôi gia làm đầu khẩn cầu thánh thượng cứu người.
Phái do Vương gia đứng đầu lại xin Hoàng thượng lập tức thảo phạt Tấn Vương, không thể vì một mình Thôi Dư mà chậm trễ chiến cơ.
Hoàng thượng chống trán suy tư hồi lâu vẫn chưa quyết.
Đúng vào lúc ấy, dưới sự dẫn dắt của Công chúa An Lạc, ta bước vào Kim Loan điện.
Gần như ngay khi ta xuất hiện, vô số lời quở trách đã dội tới.
Thậm chí có một lão thần cổ hủ vì quá giận còn giơ thước ngọc trong tay đập thẳng vào người ta.
“Vô lễ! Vô lễ! Chốn triều nghi sao có thể để nữ tử tùy tiện bước vào?!”
Ta không tránh không né, để mặc thước ngọc đánh trúng, rồi quỳ xuống, nâng cao cung vàng trong tay.
“Phùng thị Lan Bích, từ nhỏ theo phụ thân học thương pháp, năm Thịnh An thứ 3, giết giặc cướp 5 người.”
“Thịnh An năm thứ 4 đẩy lùi 20 tên địch.”
“Năm thứ 5, tại lễ săn bắn mùa xuân được thánh thượng ban cung vàng.”
“Cầu xin thánh thượng ban cho thần nữ trăm tinh binh, nhân lúc lưỡng quân giao tranh, tập kích hậu doanh địch, cứu vị hôn phu Thôi Dư của thần nữ!”
Triều đường rúng động.
Không chỉ Vương thị phản đối ầm ĩ, ngay cả phụ thân Thôi Dư cũng không đồng tình, ánh mắt đầy do dự nhìn ta.
Chỉ có Công chúa An Lạc cùng một vị võ tướng họ Thôi đứng cuối hàng thay ta lên tiếng.
Vị võ tướng ấy từng chứng kiến ta săn chim ưng trong lễ săn bắn mùa xuân, khi ấy ông còn đùa với Thôi Dư:
“Đợi cô nương ấy gả vào nhà họ Thôi, nhất định phải cùng ta luận bàn một phen!”
Phụ thân Thôi Dư dao động.
Cuối cùng, khát vọng cứu con lấn át lý trí, ông cũng bước ra cầu xin cho ta.
Có được tiếng nói của họ Thôi, ngay cả Hoàng thượng cũng ngồi thẳng dậy.
Ngài còn nhớ đến ta – kể từ khi ngài kế vị đến nay, chưa từng có nữ tử nào đoạt giải đầu trong lễ săn bắn mùa xuân, ta là người đầu tiên.
Nhưng Vương thị vẫn cứng rắn phản đối, họ cho rằng giao trăm tinh binh cho một nữ tử chẳng khác nào ném ngọc xuống vực sâu.
Ngay khi ấy, từ hàng ngũ Vương thị có người bước ra:
“Phùng cô nương, ba năm rồi không thấy ngươi giương cung, liệu bản lĩnh có còn chứ?”
Ta quay đầu, hóa ra là tiểu công tử Vương gia.
Ta không rõ ý hắn, nhưng vẫn đáp:
“Ngày ngày khổ luyện, chưa từng dám lười biếng một khắc.”
“Tốt!”
Hắn giơ thước ngọc lên, cao giọng:
“Hoàng thượng! Phùng cô nương có cung pháp lợi hại, nàng nguyện vì vị hôn phu mà xông pha, quả là nghĩa cử đáng ca ngợi.”
“Chi bằng để nàng lập quân lệnh trạng, dẫn theo trăm tinh binh đột kích doanh trại phản quân, cứu Thôi Dư.”
“Nếu thất bại thì chém đầu chịu tội!”
Nhờ có lời tiến cử của tiểu công tử họ Vương, cuối cùng, Hoàng thượng cũng gật đầu chuẩn thuận.
17
Hai quân giao chiến tại sông Hoài.
Đại quân chính diện tấn công, ta thì dẫn tinh binh chia làm hai nhóm: tám mươi người phục kích bên phải doanh trại địch, hai mươi người dắt theo bò ẩn nấp ở triền núi bên trái.
Khi quân Tấn thay ca, cánh trái lập tức thả ra đàn bò được đốt lửa ở đuôi, đồng thời đánh trống dồn dập, tạo thế như ngàn quân vạn mã xung phong, khiến quân Tấn đổ dồn về phía ấy.
Ta liền dẫn binh đột nhập doanh trại từ cánh phải.
Bên này phòng bị sơ sài nhưng cũng không phải chốn không người, ta vừa múa thương hất văng những tên lính xông tới, vừa lấy mũi thương rạch tung từng trướng lều.
Trướng này trống không, trướng kia cũng không có Thôi Dư.
Lòng ta mỗi lúc một gấp.
Ta dí mũi thương vào cổ một tên lính Tấn:
“Công tử Thôi gia ở đâu?”
Hắn chỉ về một hướng, ta không tin, vung thương đánh gục hắn.
Lại bắt thêm kẻ khác.
Cuối cùng, khi mấy tên đều chỉ cùng một nơi, ta mới lao về phía đó.
Tới tận nơi sâu trong lòng địch, ta xé toang tấm trướng…
Đập vào mắt ta là một đôi mắt mờ đục.
Thanh niên nằm rũ trên đất, thân thể gầy gò như chỉ còn da bọc xương, sắc mặt trắng bệch như người bệnh.
“Bá Cẩn!”
Ta lao vào đỡ lấy chàng.
Lúc ấy mới phát hiện, tay chân chàng đã bị chặt đứt gân.
Ánh mắt Thôi Dư mơ hồ nhìn ta.
Ta nghiến răng, gạt đi lệ nơi khóe mắt, vội khoác giáp mềm từ ngựa lên người chàng, lại xé cờ làm dây, buộc chàng lên lưng ta.
Ta gọi tinh binh hội tụ lại, xông ra mở đường máu.
Thôi Dư nằm trên lưng ta, thân thể nhẹ như sương khiến lòng ta dâng lên nỗi sợ hãi chưa từng có.
Ta gọi tên chàng không ngừng:
“Thôi Dư! Thôi Dư!”
Tiếng hô hấp bên tai yếu ớt…
Nhưng vẫn đáp lại ta từng chữ một.
“Ta đây.”
“Ta sẽ sống.”
“Đừng lo, Mãn Mãn, đừng khóc.”
18
Không rõ ta đã thúc ngựa lao đi bao lâu.
Giữa đêm tối mịt mùng, cuối cùng ta cũng thấy bóng dáng tường thành thấp thoáng.
Ta gần như ngã nhào khỏi chiến mã, kéo theo cả Thôi Dư trên lưng rơi xuống nhưng chỉ nghe một tiếng rên khe khẽ.
Lúc ấy, ta mới phát hiện sau lưng chàng còn cắm hai mũi tên.
Thế nhưng từ đầu tới cuối, chàng chưa từng để lộ một tiếng rên đau, chỉ khi đau quá sức mới âm thầm vùi đầu vào hõm vai ta, như thể nơi ấy là chỗ cuối cùng chàng còn có thể bám víu.
May mà ta đã khoác giáp mềm cho chàng nên vết tên không chí mạng.
Điều khiến y quan đau đầu hơn lại chính là gân tay, gân chân đã bị chặt đứt của chàng.
Quân y chỉ giỏi cứu mạng, còn loại thương tổn tinh vi thế này thì đành bất lực.
Sau khi thương nghị, ta quyết định đưa Thôi Dư hồi kinh và giao cho ngự y chữa trị.
Để giảm bớt xóc nảy, ta chọn đi đường thủy.
Thôi Dư mê man suốt ngày trong khoang thuyền, có tỉnh lại cũng chỉ thất thần nhìn ra ngoài cửa sổ.
Thuyền đi hơn một tháng, cuối cùng chúng ta cũng trông thấy cảnh sắc Thượng Kinh.
Giống như mọi lần, ta định tháo lớp băng vải trên cổ tay để giúp chàng bôi thuốc, nhưng chàng bất ngờ rụt tay lại.
“Phùng cô nương”
Giọng chàng đã không còn trong trẻo như xưa mà khàn khàn khô cạn:
“Đợi chúng ta trở về Thượng Kinh… hãy từ hôn đi.”
Ta khựng lại, nhìn chàng.
Thôi Dư né tránh ánh mắt ta.
Mái tóc dài của chàng rủ xuống theo động tác ấy như thác nước đổ tràn, gương mặt trắng như sứ lại càng thêm mong manh yếu ớt.
Chàng chậm rãi nói:
“Giờ ta đã là phế nhân, không xứng với cô nương…”
Ta ngắt lời chàng bằng cách nâng mặt chàng lên, cúi xuống hôn, chặn lại đôi môi cứ luôn nói những điều ta chẳng muốn nghe.
Đôi mắt trong như lưu ly của Thôi Dư đột nhiên mở lớn, phản chiếu gương mặt ta cùng tia nắng xiên chiếu từ ngoài cửa sổ.
“Thôi Dư, ta không còn trinh tiết nữa.”
Ta cố ý nói:
“Chàng thật sự không muốn cưới ta sao?”
Chàng nhìn ta, ánh mắt đầy sóng sánh, không rõ đó là nước mắt hay ánh sáng phản chiếu từ dòng sông ngoài cửa.
“Ta cưới.”
Giọng chàng run nhẹ:
“Ta muốn cưới nàng.”
“Ta đã chờ đợi để cưới nàng suốt hai kiếp người.”