Mời bạn CLICK vào liên kết bên dưới và MỞ ỨNG DỤNG SHOPEE để mở khóa toàn bộ chương truyện.

https://s.shopee.vn/3fuluph5xE

119

Lưu ý: Nội dung trên chỉ xuất hiện 1 lần trong ngày, mong Quý độc giả ủng hộ. Xin chân thành cảm ơn!

Chương 2

3.

Nam ấy nói a nương, cứ gọi chàng là “Vệ tiên sinh” là được.

Chốn núi sâu rừng thẳm, nơi hoang vắng chỉ có một căn . dĩ Vệ tiên sinh sống một mình, bên cạnh chỉ có một người chuyên đẩy xe lăn.

Thấy nương ta thai bụng đã lớn, Vệ tiên sinh im lặng một hồi, sau đó phân phó người xuống núi, đưa thêm vài nha hoàn bà mụ về chăm sóc.

A nương sợ hãi khôn xiết — tưởng bản thân là người được gả tới hạ, nào ngờ cuối cùng lại phải người khác chăm sóc cho mình.

Nàng quỳ rạp xuống đất, thành kính dập đầu tạ ơn Vệ tiên sinh. Nhưng trán nàng còn chưa kịp chạm đất, thì đã chạm phải một bất ngờ…

Là một bàn tay — thô ráp, ấm nóng, dịu dàng vô ngần — nhẹ nhàng đỡ lấy trán nàng.

đó về sau, dưới sự che chở của người ấy, nương ta mới có thể yên ổn sinh sống nơi núi rừng vắng vẻ.

Sau này, khi ta đã chuyện, ký ức mà a nương thích kể nhất… chính là đoạn năm ấy.

Nàng thường nói: “Vệ tiên sinh là ân cứu mạng của con, không có người ấy… thì sao có con trên đời này.”

Nàng dạy ta phải biết tiến lui, đừng vô lễ, lại càng không nên tùy tiện lui tới trước mặt người ấy.

Nhưng thực ra, e rằng nương có phần quá mức dè dặt.

Bởi vì ngay khi ta còn bé xíu, đã đặc biệt thân thiết Vệ tiên sinh.

Lời dặn dò của nương ta, rốt cuộc cũng chỉ như gió thoảng bên tai, sớm tan vào trời cao mây bạc.

ta yêu thích nhất, chính là mỗi ngày đều chạy sang viện của Vệ tiên sinh, nhõng nhẽo bắt người dạy ta đọc sách viết .

Bề trông người có vẻ lạnh lùng, khó gần, như có sương giá bủa vây quanh thân, nhưng kỳ thực lại là người ôn nhu nhẫn nại vô cùng.

Ta khi ấy còn , thường hay hỏi những linh tinh, chuyện vặt vãnh không đầu không cuối.

Người lớn nghe qua đều thấy phiền, thế nhưng Vệ tiên sinh chưa từng gắt gỏng.

Người luôn kiên nhẫn giảng giải từng một, từng từng , đến khi ta thật sự mới thôi.

Nhiều lúc ta vẫn thường nghĩ — nếu như Vệ tiên sinh không mất đi một chân, e rằng người hẳn đã là vật lẫy lừng khắp thiên hạ, chứ chẳng phải như bây giờ: sống ẩn dật nơi núi rừng vắng lặng, lặp đi lặp lại những tháng ngày cô độc.

Có một lần, ta đem suy nghĩ ấy thưa lại Vệ tiên sinh.

Người không nói gì, chỉ khẽ mỉm cười, vươn tay xoa đầu ta, bàn tay vẫn thô ráp nhưng ấm áp như .

Mãi về sau, ta mới dần ra — thì ra anh hùng đến lúc tuổi xế chiều, cũng chỉ là một cái tên bị thời gian phủ bụi. Vệ tiên sinh… đã trở thành người của quá khứ.

 

Nương ta biết chuyện người dạy ta đọc sách viết cũng chẳng muộn.

Dẫu , đầu đến cuối nàng vẫn không can thiệp.

Có lẽ bởi trong lòng nàng vẫn luôn xem mình là một nô tì mà người khác chuộc về, nên bản năng đã e dè, không vượt quá khuôn phép.

Nàng tin rằng thân phận của Vệ tiên sinh không phải hạng tầm thường, nên càng không buông lơi lễ nghi.

Vì thế, hễ Vệ tiên sinh đi đâu, nàng đều âm thầm theo phía sau, không nhiều lời, không phiền.

Chuyện hằng ngày như cơm nước, y phục, thuốc thang… đều do một tay nàng chăm lo chu toàn.

Những người được ngoại công đưa lên núi năm , phần nhiều đã rời đi cả.

Chỉ còn sót lại một bà lão tuổi cao, là do chính tay nương ta giữ lại.

Nàng nói, đã chọn sống cô độc chốn sơn lâm, hẳn là vì người ấy muốn thanh tĩnh. Đông người náo nhiệt, chỉ lòng thêm phiền.

Sau khi hạ sinh ta, thấy thân thể đã hồi phục đôi phần, a nương chủ động chối sự hạ của những người bên cạnh.

Chỉ vì nể lời khuyên nhủ của Vệ tiên sinh, nàng mới giữ lại một bà lão già yếu chuyên chăm sóc cho ta.

Nương ta nay luôn kính cẩn dè dặt, chưa từng sinh tâm niệm vượt khuôn phép. Trong lòng nàng, Vệ tiên sinh chẳng qua là người lương thiện — tất thảy đều chỉ là lòng tốt.

Nhưng theo lời Triệu thúc – người cận bên cạnh Vệ tiên sinh – kể lại, thì đó là lần đầu tiên ông thấy người phá lệ.

Không… thực ra là lần thứ hai.

Bởi ngay khoảnh khắc quyết định giữ lại a nương ta, Vệ tiên sinh đã qua giới hạn của chính mình.

Nhắc đến đây, Triệu thúc lại không kìm được mà kể lại chuyện ta chào đời năm ấy.

 

Ta sinh vào ngày tuyết lớn, cả ngọn núi phủ trắng một màu tang bạch, gió gào thét lồng lộng hiên, chỉ cần lộ ra da thịt, liền như bị hàn khí xé toạc.

Khi ấy, a nương vẫn như thường nhật, định mở cửa sổ lấy ánh sáng bên giường thêu vài chiếc hương nang.

Nào ngờ kẻ việc bất cẩn, chẳng lau khô nền , lại một vũng nước tuyết chưa tan.

Chỉ một trượt ấy, đã a nương ngã mạnh xuống nền đất — suýt nữa thì mẹ con đều mất mạng.

Khi Vệ tiên sinh nghe được tin, người không chờ ai đỡ cũng không ai ngăn, một mình xe lăn hối hả lao đến.

Một người trầm ổn kiệm lời như thế, khi đã lo lắng thì lại hành động như chẳng màng hậu quả. Áo choàng chưa khoác, tay trần trời đông buốt giá, vẫn lao thẳng ra mà chẳng kịp suy nghĩ.

Triệu thúc nói, khi tìm thấy Vệ tiên sinh, người đang quỳ rạp sân, khuôn mặt đỏ bừng vì lạnh, trong mắt là cơn giận khó kìm.

Giận người?

Không. Là giận chính mình — vì bất lực.

Con đường lát đá phủ đầy tuyết trắng.

Một người từng cao ngạo đến , giờ phút ấy lại giống như con chó có tang, cô độc thê lương đến đáng thương.

Triệu thúc kể lại chuyện năm , trong lời nói tràn ngập cảm thán.

Ta không biết Vệ tiên sinh từng là người thế nào, nhưng những lời kể mơ hồ ấy, ta vẫn có thể hình dung ra bóng dáng một nam từng phong lưu lỗi lạc, từng một thời ý khí tung hoành, oai phong vô lượng.

Sau đó, Vệ tiên sinh thay y phục, chỉnh lại sắc diện như thường, chậm rãi đi đến bên phòng sinh của a nương.

Ta ở trong bụng mẹ một canh giờ thì chào đời, mà Vệ tiên sinh cũng đứng đợi bên ấy đúng một canh giờ trời giá rét.

Tuyết rơi nặng hạt như lông ngỗng, dường như đã phủ trắng mái tóc của người.

Thế nhưng ngàn lời vạn ý, khi đối diện a nương, cuối cùng cũng chỉ đọng lại thành một duy nhất:

“Nàng bình an là tốt rồi.”

Sau khi người rời đi, a nương vẫn ngơ ngác nhìn chằm chằm vào ngọc bội trong tay — đó là vật Vệ tiên sinh tặng nàng, gọi là “lễ mừng”.

A nương chưa từng nghe nói có ai chuẩn bị lễ vật cho sản phụ sau khi sinh.

Cho nên, khi nghe tin Vệ tiên sinh nhiễm bệnh, a nương liền khoác thêm mấy lớp áo dày, bịt kín từng đầu ngón tay, đội gió dầm tuyết mà đến trước cửa phòng người.

Triệu thúc nói, khi nghe thấy tiếng nàng gọi, người cả ngày uể oải mỏi mệt, bỗng như sống lại toàn bộ khí lực, vẻ vui mừng lộ rõ trên nét mặt.

Chỉ là… những gì a nương kể lại cho ta nghe, lại không hề giống như thế.

4.

Vệ tiên sinh trong lời kể của a nương — là một người nghiêm cẩn, trầm mặc, dường như chẳng ai xâm phạm nửa phần — nhưng lại là người người ta vô cùng tin tưởng.

Người lòng dạ hậu, đích thân tuyển chọn hạ hạ cho a nương.

Người tỉ mỉ chu toàn, từng đến cho nàng những xiêm y tinh xảo mà thiếu nữ nào cũng yêu thích, lại còn dày công tìm những món trang sức tao nhã.

Người học thức uyên bác, kiên nhẫn dạy nàng đọc từng , viết từng hàng…

Người ấy… đã vì nàng mà biết bao nhiêu việc.

Năm tháng phôi pha, viết năm dưới gốc liễu bị đất phủ kín, chẳng còn nhìn rõ nét nào.

Thế nhưng tình ý của Vệ tiên sinh dành cho a nương, lại như sương khói lan tràn khắp căn , không nơi nào là không hiện hữu.

Chỉ có — a nương lại không hề nhìn thấy.

Nàng chỉ cho rằng, tất cả những ấy là vì Vệ tiên sinh lương thiện mà thôi.

Rõ ràng người luôn theo hương nang do nàng tự tay may, rõ ràng người chỉ cho phép mình nàng vào chốn tĩnh lặng ấy, nhưng nàng vẫn không tiến thêm một .

Nàng là người dũng cảm, tự ti — kiên cường, lại cũng rất sợ hãi. nàng… chưa từng nói ra gì.

 

Cuộc sống trên núi yên tĩnh đến nhàm chán.

Nhưng a nương, chưa từng là như .

Nàng trồng rau trồng hoa trong sân, nàng cùng Vệ tiên sinh dưới mái hiên uống trà ngắm cảnh, mùa đông tuyết rơi nàng nấu trà thơm, mùa hè oi ả nàng bánh chưng phòng.

Ngày qua ngày, chậm rãi, thong dong như nước chảy.

Tựa như an yên, tựa như hạnh phúc.

Nhưng chúng ta đều biết — không phải như .

Vệ tiên sinh chưa từng ngăn cản a nương rời núi.

Là chính nàng, không muốn đi.

Có lần ta trong lòng nàng, tò mò hỏi: “Vì sao người không xuống núi?”

Ánh mắt nàng khẽ tối đi, qua một lúc lâu, mới chậm rãi vuốt tóc ta, khẽ lẩm bẩm:

“Dưới núi có gì đâu? Dưới núi… toàn là lang sói hổ báo, chẳng bằng trên núi thanh tĩnh.”

Tuy nói rằng đã buông bỏ, nhưng mỗi ngày, khi ánh mắt a nương dõi về phương xa, nàng vẫn lặng lẽ cho ta biết — nàng chưa từng quên.

Chỉ là… a nương không hay biết, khi nàng dõi theo bóng hình nơi chân trời ấy, cũng có người đang đứng sau lưng, lặng thầm ngắm nhìn nàng.

Khi nàng lo lắng nghĩ về người dưới núi, cũng sẽ có người “vô tình” nhắc đến cảnh vật phương xa, gợi lên những mẩu ký ức mà nàng không chạm đến.

Vô số món đồ “tục khí” được về từng đợt từng đợt, chất đầy tiểu viện của nàng — tất cả đều là những thứ mà thời trẻ nàng từng yêu thích.

Chỉ một nàng lỡ lời: “Ta thích hoa.”

mà đến mùa xuân năm sau, khắp vườn đã rực rỡ muôn sắc, hoa nở như muốn tràn cả ngưỡng cửa.

Chỉ một lần nàng khẽ thở dài: “Ta nhớ .”

là có người, âm thầm lặng lẽ, thức trắng bên tiểu viện của nàng — đêm này qua đêm khác.

 

Vệ tiên sinh… quả thật là người ít nói.

Người âm thầm tiến vào cuộc đời của a nương, nhẹ nhàng đến mức không gây nên một tiếng động.

Chỉ tiếc là, sự lặng lẽ ấy… lại quá mức yên ắng, người cần nghe cũng chẳng thể nghe được gì.

Nếu không nhờ ta lanh lợi, lại thường xuyên ở bên người, vô tình nghe người nhắc đến a nương qua những nói tưởng chừng ngẫu nhiên, thì có lẽ… ta cũng chẳng nhận ra.

Bỗng nhiên, ta nhớ tới lời Triệu thúc từng nói: khi ta còn bi bô học nói, đầu tiên cất lên lại là nhìn về phía Vệ tiên sinh, gọi một tiếng: “Cha!”

A nương hốt hoảng bịt chặt miệng ta lại, đỏ mặt cười xòa nói người:

“Trẻ con không chuyện, ngài đừng trách.”

Còn Vệ tiên sinh — người ấy lại âm thầm mừng rỡ thật lâu, chỉ cười nói: “Không sao cả.”

Sau này, khi ta lớn hơn một , đã biết lễ nghĩa, bắt đầu gọi người là “Vệ tiên sinh”.

Khi ấy… người lại có vẻ buồn hẳn đi, mấy ngày liền không nói nhiều lời.

Sau khi biết Vệ tiên sinh không phải là phụ thân ruột của ta, ta chưa từng chủ động hỏi đến.

Ngược lại, chính a nương là người kể cho ta nghe trước — như thể chỉ là một chuyện nhặt chẳng đáng bận tâm.

Buổi trưa hôm ấy, khi hai mẹ con trên chiếc xích đu mà Vệ tiên sinh dặn người dựng riêng trong sân, tay nắm lấy dây, đong đưa nhè nhẹ dưới bóng nắng nhàn nhạt sau bữa ăn.

Cứ thế, như vô tình, nàng bắt đầu kể về người thợ săn năm — cha ruột của ta.

Từng , từng , nhẹ như làn gió thoảng, chẳng theo oán giận, chỉ như đang nói về một người xa lạ đã lâu không gặp.

Chỉ đến khi nhắc đến ba năm đầu thành thân, giọng nàng mới hơi dịu lại đôi — như thể đó là quãng thời gian duy nhất còn giữ lại ấm áp trong tim.

Còn về chuyện phản bội sau cùng… nàng không hề nhắc lại.

Cứ như thể, người đã mất thì như đèn đã tắt — tất cả ân oán theo người mà chôn vùi dưới nấm mồ lạnh lẽo kia.

Khi ấy, ta Vệ tiên sinh đã vô cùng thân thiết.

Nghe xong lời kể của a nương, ta liền lập tức chạy tới chỗ người.

Ta còn quá , chưa thế nào là thiên vị, càng không đạo lý huyết thống nặng hơn nghĩa tình.

Ta chỉ biết một đơn giản:

So người thợ săn đã a nương khổ đau năm ấy — thì Vệ tiên sinh, người dịu dàng, trầm ổn, luôn lặng lẽ ở bên mẹ con ta… mới chính là phụ thân trong lòng ta.

Khi Vệ tiên sinh nghe thấy lời ta nói, mặc cho Triệu thúc khuyên can, người vẫn lập tức dang tay ôm ta vào lòng, đặt ta lên đùi mình.

Đó là lần đầu tiên ta chạm vào đôi chân của người — lần đầu tiên nhào vào vòng tay ấy.

Đúng như trong tưởng tượng của ta: uy nghi, cao lớn, lại dịu dàng ấm áp. Một cái ôm người ta có cảm giác an toàn đến lặng người — giống hệt như hình dung trong mộng về một người cha thật sự.

Người cúi đầu, ánh mắt dịu dàng, chậm rãi hỏi ta, giọng nói như kiên nhẫn lại theo vài phần dẫn dắt:

“Như Ngọc, nếu ta cha con… được chứ?”

Ta vui vẻ gật đầu, không do dự.

Thế nhưng người… lại còn vui mừng hơn ta nữa.

đó, như thể hai người chúng ta chôn giấu một bí mật nho .

Ta bắt đầu giúp người bày mưu tính kế, còn người thì mượn cớ ta, từng vào cuộc sống của a nương.

Mùa xuân thả diều, mùa hạ ngắm sen, mùa thu hái quả, mùa đông ngắm tuyết — năm này qua năm khác, cứ thế lặng lẽ trôi qua.

Tùy chỉnh
Danh sách chương