Mời bạn CLICK vào liên kết bên dưới và MỞ ỨNG DỤNG SHOPEE để mở khóa toàn bộ chương truyện.
https://s.shopee.vn/5L0MjEuv8o
Lưu ý: Nội dung trên chỉ xuất hiện 1 lần trong ngày, mong Quý độc giả ủng hộ. Xin chân thành cảm ơn!
1.
Khi mười tám tuổi, mẹ tôi rất được người ta theo đuổi.
Chính bà kể vậy.
Bà còn bảo, trong đám người theo đuổi đó, ba tôi là người nghèo nhất.
Nhưng cuối cùng bà vẫn gả đi.
Bởi vì ông bà ngoại tôi chọn ông ấy.
Họ nói, nhà ông có nhiều lao động, kiếm điểm công cao,
mẹ tôi sẽ không phải chịu khổ.
Nhưng rốt cuộc, đời bà lại gần như là cả một kiếp khổ.
Có lẽ khi đó ông bà ngoại tôi cũng không ngờ,
chưa kịp gả đi thì cả làng đã bỏ chế độ điểm công.
Lời hứa đã định, không thay đổi được nữa.
“Lời hời cho ba mày đấy!” – mẹ tôi hừ một tiếng.
Tôi hỏi bà:
“Vậy lúc đó mẹ thật sự không có cảm tình gì với ba con à?
Ba con cũng đẹp trai mà!”
Mẹ tôi trợn mắt lườm tôi:
“Đẹp trai cái đầu mày! Ba mày là đồ đần!”
2.
Khi dì hai sắp cưới, chuyện giữa mẹ tôi và ba tôi về cơ bản cũng đã được hai bên gia đình bàn xong.
Nhưng khi ấy, mẹ tôi vẫn chưa có chút tình cảm nào với ba.
Vào ngày cưới của dì hai, ba tôi xách đường đỏ, gạo nếp với bột mì đến dự tiệc.
Ông đặt lễ vật ngay trước mặt bà ngoại tôi – tức mẹ vợ tương lai, rồi hí hửng đi theo mẹ tôi suốt cả buổi.
Mẹ tôi đi đâu, ông theo đó.
Thế nhưng bà chẳng buồn để ý.
Lâu dần, ba tôi cũng nhận ra sự lạnh nhạt của bà.
Tiệc cưới diễn ra được nửa chừng, ông bà ngoại mới phát hiện không thấy ông đâu cả.
Hỏi ra mới biết, ông chẳng nói chẳng rằng, lặng lẽ một mình bỏ về.
Ngay cả chén rượu mừng cũng chưa kịp uống.
Hôm đó mẹ tôi bị ông bà ngoại mắng cho một trận ra trò.
Bực mình quá, bà đi tìm ba tôi để hỏi cho ra lẽ.
Ba tôi chỉ gãi đầu, lí nhí:
“Anh… anh cũng không đói lắm…”
Mẹ tôi tức đến mức muốn ngửa ra trời.
Đây là chuyện có đói hay không à?
“Mẹ cứ tưởng ba mày cố tình làm cao, ai ngờ ông ấy ngốc thiệt!”
Nhắc lại chuyện năm đó, mẹ tôi vẫn còn hậm hực trong lòng.
Người đàn ông thật thà đến khờ khạo như ba tôi lại rất được lòng ông bà ngoại.
Năm 1985, mẹ tôi hai mươi tuổi.
Mẹ tôi và ba tôi từng cùng nhau đến Thượng Hải.
Họ đi dạo ở Bến Thượng Hải, ghé thăm tháp Minh Châu Phương Đông.
Còn nhờ người qua đường chụp cho một tấm ảnh đôi.
Năm 1986, mẹ tôi gả cho ba tôi.
Tấm ảnh chụp ở Thượng Hải ấy, bà xem như ảnh cưới.
Bản chính và cả cuộn phim âm bản được bà cẩn thận ép dưới lớp kính bàn trà trong phòng ngủ.
Năm 1989, mẹ sinh ra tôi.
Đêm hôm đó, nhà chật kín người – toàn là họ hàng bên nội kéo tới.
3.
Mẹ tôi nói, đó là lần thứ hai trong đời tất cả họ hàng tụ tập đông đủ ở nhà.
Lần đầu tiên, là vào năm mẹ tôi vừa gả về nhà chồng.
4.
Thật ra, người khiến mẹ tôi gật đầu chịu lấy ba tôi – là bà nội.
Ông nội tôi người gầy nhỏ, tính tình hiền lành, quanh năm chỉ biết cắm mặt vào mấy sào ruộng sau nhà.
Ngược lại, bà nội lại là người nhanh nhẹn, tháo vát.
Trong nhà, bà luôn là người nắm quyền làm chủ.
Bà nội hiểu rõ tính ba tôi chậm chạp, giống y hệt ông.
Thế nên thay vì trông chờ ông tự tìm được vợ, bà quyết định tự mình ra mặt –
chọn con dâu theo tiêu chuẩn… nuôi như nuôi con gái.
Mẹ tôi kể, hồi đó bà đúng là không có cảm tình gì với ba tôi, nhưng lại rất có cảm tình với bà nội.
Về làm dâu rồi, bà cũng tưởng rằng mình thật sự được sống cuộc đời dễ chịu.
Bà nội cưng mẹ tôi như con gái ruột.
Ba tôi tuy không biết dỗ dành, nhưng chuyện gì cũng nhường bà.
Chú tôi nhỏ hơn ba năm tuổi, còn trẻ người non dạ, nhưng rất kính trọng chị dâu.
Ông bà nội chỉ sinh được ba tôi và chú, không có con gái,
cũng chẳng phải chịu cảnh va chạm với em chồng.
Lúc đó, mẹ tôi nghĩ lại, thấy lời ông bà ngoại nói cũng không hẳn sai.
5.
Nhưng những ngày tốt đẹp của mẹ tôi cũng chẳng kéo dài bao lâu — bà nội đột ngột qua đời.
Mẹ kể, khi đó là ngày 20 tháng Chạp.
Chú tôi định đưa bạn gái về ra mắt ông bà, chuẩn bị sang năm sẽ bàn chuyện cưới xin.
Bà nội vui mừng hết cỡ.
Con trai út cuối cùng cũng biết tự đi yêu đương, không cần mẹ phải nhúng tay vào nữa.
Khá hơn cái “đồ ngốc” là ba tôi biết bao!
Bà dậy từ rất sớm, dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ từ trong ra ngoài, mổ gà làm cá, chuẩn bị cơm nước tươm tất.
Nhưng đang bận bịu, bà bất ngờ ngã quỵ xuống.
6.
Bà nội tôi mất đột ngột.
Xuất huyết não.
Mẹ tôi và ba tôi còn chưa kịp hoàn hồn sau cú sốc ấy, thì họ hàng bên nội đã lần lượt kéo đến nhà.
Căn nhà cấp bốn vỏn vẹn hai gian đất nện, chật ních người suốt một tuần.
“Con là dâu trưởng, là chị dâu cả, lại có ăn học… Phải chống đỡ gia đình này thôi, Tri Thu à – con phải gánh vác nhiều hơn…”
Mẹ tôi kể, lúc ấy bà thấy nực cười vô cùng.
Rõ ràng bà mới về làm dâu chưa đầy một năm.
Thậm chí còn chưa trải qua một cái Tết trọn vẹn ở nhà chồng.
Người trong dòng họ còn chưa nhớ mặt, chưa kịp xưng hô hết tên,
mà đã có thể thân thiết khoác tay bà, dặn dò bà phải “nâng đỡ cả nhà”.
Nâng đỡ, gánh vác – nghe thì dễ, làm thì sao?
Huống hồ hai anh em còn chưa chia nhà riêng, chú út thì chưa lấy vợ.
Một khi đã nhận lấy cái vai “chủ nhà”, ngay cả việc cưới vợ cho em chồng… cũng sẽ đổ lên vai bà hết.
7.
“Tại sao mẹ không từ chối luôn cho rồi?” – tôi hỏi.
Mẹ tôi nhổ một bãi nước bọt, hừ lạnh:
“Mày nói nghe nhẹ hều! Mấy ông chú bác ông cậu, rồi thì bà cô bà thím lớn bé gì đó,
cả đám cứ chình ình bám trụ trong nhà mình. Tao mà không gật đầu gánh cái nhà này,
họ nhất định không chịu rời đi. Mày làm gì được?”
“Huống hồ, nếu lúc đó tao thật sự phủi tay mặc kệ,
dân trong làng thể nào cũng nói ra nói vào, chỉ trỏ sau lưng.”
Lần đó, bị vây giữa vòng vây thân thích, mẹ tôi đành thỏa hiệp.
Nhận lấy vai trò “người chủ trong nhà”.
Từ đó trở đi, mẹ không chỉ phải chăm sóc chuyện trong ngoài cho ba,
đến cả đồ lót của chú út cũng do bà tự tay giặt —
cho đến tận khi chú cưới vợ.
Lúc ấy, mẹ tôi cũng chỉ mới ngoài hai mươi, còn chưa làm dâu tròn một năm.
Mẹ bảo, mỗi lần mấy họ hàng nhà nội ùn ùn kéo tới, chẳng bao giờ là điềm lành.
Nhưng lần thứ hai, bà không định nhịn nữa.
Tối hôm ấy, tôi vừa mới chào đời, nằm trong nôi đỏ hỏn, bé xíu xiu, gầy gò quắt queo.
Ngoại tôi nói, vừa nhìn đã thấy giống như chẳng nuôi nổi.
Ông ngoại thì đứng bên, bà ngoại thì ngồi kế bên.
Ông bà ngoại tôi cứ dòm qua nhìn lại chiếc nôi, không ngừng thở dài.
“Thu à… hay là mình…”
“Mẹ!” – mẹ tôi đột ngột cắt lời bà ngoại.
“Đây là đứa con mà con và Văn Toàn phải khó khăn lắm mới có được!”
“Nhưng mà…” – bà ngoại nhíu mày, vẻ mặt đầy lo lắng –
“Bác sĩ chẳng nói rồi sao? Đứa nhỏ này sau này e là bị tật… lại còn là con gái nữa…”
“Thì sao chứ!”
Tiếng quát của mẹ tôi vang khắp hành lang phòng bệnh.
“Bị tật thì sao? Nó vẫn là con gái của tôi – Tạ Tri Thu này!”
“Nếu nhà họ Từ chê bai, cùng lắm thì tôi tự mình nuôi!”
Bà nằm trên giường bệnh, mới sinh xong không lâu, mặt mũi còn trắng bệch, chưa có tí huyết sắc nào.
Vậy mà cả người lại tỏa ra khí thế như sấm rền sét nổ.
Nếu lúc đó tôi – con bé đỏ hỏn nằm trong nôi – biết nói,
nhất định sẽ giơ ngón cái tán thưởng bà.
Mẹ tôi chính là ngầu dữ dằn vậy đó!
8.
Mẹ tôi nói, tôi là đứa trẻ không dễ mà có được.
Sau khi cưới ba tôi, bụng bà mãi chẳng có động tĩnh gì.
Bà từng lên trạm xá thị trấn khám, cũng từng đến bệnh viện huyện kiểm tra,
kết quả đều bình thường.
Lâu dần, bà cũng không còn để tâm nữa.
Mà thật ra, bà cũng chẳng còn thời gian để mà để tâm.
Sau khi bà nội mất, trong nhà để lại một khoản nợ.
Khi đó chế độ công điểm mới vừa bị xóa bỏ,
mà ông bà nội tôi vốn là những nông dân hiền lành, lam lũ.
Ba tôi và chú út là hai lao động chính trong nhà.
Nhưng vừa đầu năm, ba tôi lấy vợ, hầu như vét sạch tiền tích cóp.
Đến lúc bà nội qua đời, không những nhà chẳng còn đồng nào,
mà còn phải vay mượn họ hàng khắp nơi.
Mẹ tôi buồn đến mức sắp hói cả đầu.
Trước kia nhà mẹ tuy đông anh chị em,
nhưng bà có hai chị gái và một anh trai đỡ đần phía trên,
phía dưới còn có một em trai gánh bớt.
Cuộc sống cũng tạm gọi là sung túc, không phải lo nghĩ gì nhiều.
Bà ngoại tôi là thợ may, tay nghề rất giỏi.
Ông ngoại thì mở một tiệm tạp hóa nhỏ, sống cũng nhàn nhã.
Tính ra, từ bé đến lớn mẹ tôi chưa từng phải lo chuyện cơm áo gạo tiền.
Thế mà vừa về làm dâu nhà họ Từ được một năm,
bà đã bắt đầu phải đau đầu vì từng đồng từng cắc.
Thỉnh thoảng, ông bà ngoại xót con, lén gửi tiền cho bà.
Mấy anh chị em bên nhà mẹ nếu có đồ gì ngon cũng nhớ phần cho bà.
Nhưng cũng chẳng thấm vào đâu so với nỗi lo thường trực vì tiền bạc.
Chẳng bao lâu sau, trong làng bắt đầu râm ran mấy lời đàm tiếu…
Thời đó, hôn nhân là như vậy.
Cứ như chỉ cần hai người đăng ký kết hôn, ngủ cùng một giường,
thì tháng sau trong bụng phải có động tĩnh gì đó.
Không có con, tức là… có vấn đề.
Giống như mẹ tôi — Tạ Tri Thu — cưới về cả năm mà bụng vẫn im ru,
thì thể nào cũng bị đổ cho là không đẻ được.
Nặng lời hơn, người ta gọi là “gà mái không biết đẻ trứng”!
Lời ra tiếng vào cuối cùng cũng lọt đến tai ông bà ngoại tôi.
Bà ngoại hốt hoảng, xách theo bao thuốc bắc đi chạy vạy khắp nơi,
cuống quýt chạy lên nhà tôi.
Mẹ tôi hết lời khuyên nhủ, dỗ dành mãi mới tiễn được bà về.
Bà ngoại vừa bước ra khỏi cửa chưa kịp khuất bóng,
đã có người khác chạy tới nói với mẹ tôi:
— “Chuyện cưới hỏi giữa chú út và con gái út nhà họ Vương… sắp hỏng rồi đó!”