Mời bạn CLICK vào liên kết bên dưới và MỞ ỨNG DỤNG SHOPEE để mở khóa toàn bộ chương truyện.
https://s.shopee.vn/9zphGkqkO8

119
Lưu ý: Nội dung trên chỉ xuất hiện 1 lần trong ngày, mong Quý độc giả ủng hộ. Xin chân thành cảm ơn!
mươi đêm trăng cuối cùng, ngôi bên hồ Trăng Đen đổi tên thành Thủy Minh thôn.
Người đời kể rằng kể từ khi quan Hàn Ngọc Sơn hiến thân để nguyền, nước hồ trở nên trong vắt như pha lê, cá tôm sinh sôi, mùa màng được mùa, không còn ai mất tích.
Người lập miếu bên bờ, là Miếu Sơn , ngày ngày khói hương không dứt. Ai đi ngang cũng cúi đầu vái ba vái, ông bằng tên kính cẩn:
“Hàn Đại Nhân – người trấn hồn giữ mạch trời đất.”
Thế , sự bình yên kéo dài thập niên ấy… chỉ là tấm màn sương mỏng che phủ thứ u minh đang đợi ngày thức dậy.
Đêm ấy, mưa như trút nước.
Gió nổi, sấm sét đan chéo trên bầu trời, rạch ngang đỉnh núi Tăm u tối.
Trong căn nhà ở cuối thôn, một phụ nữ đang trở dạ.
Người đỡ đẻ, mụ Giang, run rẩy niệm Phật không ngừng. khi chớp sáng lóe lên, người phụ nữ lại hiện rõ – mặt tái xanh, tóc ướt sũng, đôi trợn ngược trong cơn đau quặn thắt.
Tiếng sấm nổ vang như tiếng trống tế thần, ngay khi đứa trẻ cất tiếng khóc đầu tiên, sét đ.á.n.h trúng mặt hồ.
Mọi người trong thôn đều kể lại rằng: trong khoảnh khắc ấy, nước hồ vốn trong, bỗng đen kịt như mực.
mụ Giang hoảng hồn nhìn đứa trẻ trên tay – da trắng bệch như sáp, đôi môi thâm lại, ngay giữa trán, một vết bớt hình trăng khuyết đen sẫm, lạnh lẽo như bị khắc sâu vào da.
“Trời ơi… đứa trẻ này… là điềm chẳng lành …!”
người mẹ, dù kiệt sức, vẫn mỉm cười yếu ớt:
“… là con ta… tên … là Hàn Minh.”
Hàn Minh lớn lên giữa đồn nỗi sợ.
Bọn trẻ trong thôn không ai dám lại gần. khi đi , gió bỗng lặng, lũ ch.ó tru rống, còn đèn dầu trong nhà tự nhiên tắt phụt.
lên bảy, biết đọc biết viết, tự học nhờ cuốn sách cũ trong miếu Sơn .
Người ta bảo có thể đọc chữ trên bia cổ mà chẳng ai hiểu nổi.
thường bên hồ, ngồi hàng giờ nhìn mặt nước, thì thầm chẳng ai nghe được.
Một lần, mụ Giang – người đỡ đẻ ấy – bắt gặp thằng bé đứng giữa đêm, nhắm nghiền, tay chạm mặt hồ.
Nước xung quanh sôi lên, bọt trắng nổi đầy mặt.
Khi hoảng hốt chạy lại, chỉ quay đầu, nói giọng đều đều như mộng du:
“Dưới hồ không c.h.ế.t đâu… Họ vẫn đang hát… không ai nghe thấy.”
Từ hôm đó, mụ đổ bệnh, nói sảng mãi, miệng chỉ lặp lại:
“Trăng đen… trăng đen lại sắp lên…”
Mười , một nhà sư hành khất từ phương Bắc ghé .
Ông ta đầu bạc, khoác áo cà sa vá chằng vá đụp, chỉ mang theo một chuỗi tràng hạt bằng gỗ đen chiếc chuông .
Ông đứng trước miếu Sơn hồi lâu, cười khẽ:
“Âm khí nơi đây, chẳng tiêu tan mà chỉ tạm ngủ. Người trấn hồn xưa hy sinh, hồn oán chẳng rời. có gánh thay… ấy hẳn sinh .”
Dân nghe vậy thì hãi, hỏi rằng có thể hóa chăng.
Nhà sư lắc đầu:
“Một khi dấu ấn trăng đen tái sinh, chỉ có m.á.u của người mang ấn ấy mới phong ấn được hồ lần nữa. nếu hắn chống lại số mệnh… thiên hạ này lại chìm trong đêm đen.”
Từ đó, chẳng ai dám gần Hàn Minh nữa.
Đứa trẻ sống cô độc, chỉ trò chuyện với chính mình trong nước.
Đêm rằm tháng tám Hàn Minh mười bảy tuổi, mở hội trăng đầu tiên mươi .
Trẻ con thắp đèn, người lớn ca hát, tiếng trống múa lân rộn ràng bên hồ.
Hàn Minh cũng có mặt, đứng xa xa, tay cầm chiếc đèn giấy hình trăng.
Khi trăng lên đỉnh, gió lạnh bỗng thổi . Mặt nước hồ dậy sóng, trăng trên nước chuyển màu đen.
Tiếng đàn sáo tắt lịm, mọi người hoảng sợ.
Một cụ già run rẩy la lên:
“Trăng đen… lại !”
Hàn Minh ngẩng đầu. Trong đôi cậu, ánh trăng phản chiếu như hố sâu vô tận.
Cậu lẩm bẩm:
“Họ ta… bảo ta trở về…”
Giây , nước hồ b.ắ.n tung, hàng trăm bàn tay trắng bệch thò lên, nắm lấy chân người đứng gần mép nước.
Tiếng hét vang dậy khắp thôn, m.á.u hòa cùng ánh trăng đen thành một vòng xoáy lớn.
Người ta kể lại rằng, trong đêm ấy, chỉ có một mình Hàn Minh không hề bị kéo .
Cậu đứng giữa bờ hồ, áo không dính bụi, dõi theo trăng, miệng khẽ nói:
“Ta nhớ … tất cả quay lại.”
Từ đêm đó, Hàn Minh không nói chuyện với ai nữa.
Cậu chỉ miếu Sơn đêm, thắp một ngọn đèn đọc thứ ngôn ngữ cổ trên bia đá mà chẳng ai hiểu.
một hôm, cậu mộng thấy một người đàn ông mặc quan phục, đứng giữa hồ, mỉm cười hiền hòa.
“ là ta… còn ta là .”
“ là… Hàn Ngọc Sơn?” – Minh hỏi.
“Phải. nghiệp ta chưa dứt. Máu của ta hóa hồ, linh hồn của ta giữ yên dân, song… tà khí không tan. Giờ phải chọn: hoặc kế thừa ta, hoặc thoát tất cả.”
“ thoát… bằng cách nào?”
“Đổ m.á.u hồ, dùng linh hồn làm mộc.”
Minh lắc đầu:
“Ta không muốn c.h.ế.t.”
“Nếu sống, ngàn linh hồn kia chẳng yên. Cả thôn, cả đất này hóa mồ chôn.”
“ nói dối!”
Quan phục trong mộng cười nhẹ, tan vào sương, chỉ để lại tiếng nói vang vọng:
“ trốn nghiệp… cuối cùng vẫn phải trả giá.”
Bảy đêm hội trăng, tiếng gió hú liên hồi.
Mây đen kéo che khuất ánh sáng, hồ bắt đầu đổi màu.
Người trong thôn tìm , ai cũng quỳ trước miếu cầu khấn.
Trong gian giữa, Hàn Minh ngồi bất động, trước mặt là bức họa chân dung Hàn Ngọc Sơn – tổ tiên mà cậu chưa từng gặp.
Bức họa chảy máu.
Từng dòng m.á.u đỏ tươi rỉ ra từ , mũi, miệng, nền đất.
Cậu cảm thấy một lực vô hình kéo mình đứng dậy, bước ra bờ hồ.
Mưa bắt đầu rơi.
Dưới mặt nước, hàng vạn người nhấp nhô, tên cậu trong âm điệu nghẹn ngào:
“Minh… trả lại… m.á.u của chúng ta…”
Cậu quỳ , tay run run đặt lên mặt nước lạnh buốt:
“Nếu ta là người kế thừa… thì hãy để ta kết thúc.”
Ngay khi vừa dứt, vết bớt trăng đen trên trán cậu sáng rực.
Mặt hồ gầm lên như thú dữ.
Một luồng khí đen cuốn cậu đáy, không ai kịp ngăn.
Khi dân tìm tới, hồ lại trở nên phẳng lặng như chưa từng nổi sóng.
Chỉ còn trăng thật trên cao, soi mặt nước trong veo.
Bỗng, từ giữa hồ, một luồng sáng trắng vút lên, rọi khắp thôn.
Tiếng hát xưa vang lại – giọng của nữ nhân từng bị hiến tế:
“Người mang ấn trăng đen… trả xong nợ máu…”
Mưa tạnh.
Trăng sáng trở lại, không còn đen, chỉ còn ánh bạc dịu hiền.
Sáng hôm , người ta thấy trên bờ hồ, cỏ mọc xanh rì, còn miếu Sơn được bao phủ bởi một lớp ánh sáng mờ.
Trên tấm bia cũ, tự nhiên xuất hiện thêm một hàng chữ :
“Hàn Minh – gánh nghiệp, người trăng.”
Nhiều , khách hành hương đi ngang Thủy Minh thôn đều nghe kể truyền thuyết ấy.
Họ bảo, khi trăng tròn, nếu nhìn kỹ mặt hồ, thấy người — một già, một trẻ — đứng song song trên mặt nước, nhìn về phía miếu, không nói gì.
Trẻ con trong khi đi ngang đều được dạy khấn:
“Tạ ơn người giữ hồ, nguyện cho trăng sáng mãi.”
kể từ đó, hồ Trăng Đen biến mất khỏi bản đồ, chỉ còn trong kể của dân gian.
Người ta nơi ấy là Hồ Trăng Oan — nơi cuối cùng kết thúc mọi oan hồn của triều cũ.
có người già vẫn nói khẽ vào đêm sương mù dày:
“Trăng đen không c.h.ế.t… chỉ đang chờ người kế tiếp.”